Hồi 3: Nói chuyện với Tổ Tiên và con đường tâm linh 'về nhà Lần đầu tôi được đi đến Làng Mai là vào cuối mùa hè năm 2017, khoảng thời gian tôi vừa tốt nghiệp đại học và vẫn còn rất bỡ ngỡ với cuộc đời. Khi bạn kết thúc một chặng đường dài mà nó dường như đã trở thành một điều tất yếu trong cuộc sống, hay thói quen vô hình của bạn, bạn sẽ bắt đầu hoang mang về tương lai, về sự bất định của những điều sắp tới. Và trong lúc tôi yếu đuối nhất, những cảm xúc tiêu cực lẫn sang chấn mà tôi đã dồn nén trong suốt 15 năm đi học bỗng từ từ ùa về. Tôi chịu không nổi nữa, nên tôi quyết định nghe theo con tim mách bảo và bắt đầu xách ba lô lên đi. Đó là lần đầu tiên tôi đi du lịch một mình, tôi sợ hãi vô cùng, nhưng tôi biết đó là điều tôi cần Do gia đình có gốc đạo Phật nên từ bé văn hóa và nghi thức Phật giáo không có gì lạ lẫm với tôi. Nhà tôi trước giờ đều chia làm 2 phe giữa Bắc Tông (Đại Thừa) và Nam Tông (Tiểu Thừa), Phật giáo ở miền Nam có thể xem là phát triển hơn miền Bắc vì họ chấp nhận nhiều sự đa dạng hơn. Bất kể là tôn giáo, chính trị hay vấn đề xã hội nào, thì dường như người ta đều không thoát khỏi những sự tranh chấp, cãi vã về các hệ tư tưởng và niềm tin khác nhau. Điều này không chỉ xảy ra trên thế giới, đất nước ta hay thậm chí trong tôn giáo ta, mà còn ngay cả trong chính gia đình tôi. Nhiều khi tôi suy ngẫm rằng, nếu mỗi người chúng ta chịu chậm lại một nhịp để quan sát thật kỹ xung quanh, ta sẽ thấy rằng lịch sử là một dòng chuyển, tương tự như thuyết duyên nghiệp trong đạo Phật (karma), nó không bao giờ mất đi mà luôn lặp lại trong những hình thù khác nhau. Lần đầu tiên ‘giác ngộ’ của tôi, là khi tôi đang đi thiền hành giữa những hàng cây vào một mùa thu đầy lá ở xóm Thượng (Làng Mai). Lúc đó xung quanh tôi như được bao trùm bởi những thanh sắc màu xanh của lá, vàng của nắng và nâu của những bản thể cạnh đó, trong một phút giây nhập thần nào đó cùng với tiếng gió xào xạc và những chiếc lá trên cây lắc lưu, tôi như nhìn thấy được sự liên kết nhiệm màu giữa vạn vật xung quanh và bản thân tôi. Có một niềm vui trỗi dậy trong tôi, và dù nó rất nhỏ nhưng lại rất mạnh mẽ. Nó bao trùm hết tất cả những khổ đau, suy nghĩ hay những khúc mắc trong tâm hồn tôi. Lần đầu tiên, kể từ khi tôi bắt đầu làm người lớn, kể từ khi tôi rời khỏi mái trường công lập, tôi được quay về với cái cảm xúc diệu kỳ đó. Và tôi đã nhìn thấy được nhà của tôi, sau rất nhiều năm dường như lạc mất dấu nó. “I have arrived. I am home. Tôi đã lặp lại điệp khúc đó gần như cả ngàn lần trong suốt 2 tuần mình được ở lại Làng. Vào cuối tuần đầu tiên tôi chỉ mới cảm nhận được vế câu ‘I have arrived’ thôi. Tôi chỉ có thể về, mà chưa về đến nhà được. Nhà là gì, nhà ở đâu? Ở Làng Mai, ai cũng bảo là nhà ở nơi đây, ngay tại giây phút này nhưng lúc đó tôi có hiểu được nhiều đâu. Nhưng về sau tôi mới ngộ ra rằng, thật ra nhà không phải ở ngay giây phút hiện tại, chỉ khi ta quay về với bản thể thực tại thì ta mới có đủ điều kiện để nhận ra ngôi nhà trong tim mình. Thật ra nhà có thể là bất cứ đâu, chỉ cần nơi đó con tim ta thuộc về thì đó cũng là nhà rồi. Có một căn nhà sâu thẳm trong tôi, mà tôi đã đánh mất đi rất nhiều năm, đó là ngôi nhà nằm trong hình ảnh chuyển động của những cành cây và tán lá xào xạc trong nắng gió. Khi tôi còn rất nhỏ, khi mà nhà tôi chuyển từ một ngôi nhà nhỏ bé với chiều ngang chỉ hơn 1 mét trên con phố đông đúc đến một ngôi nhà to tiện nghi hơn ở vùng ngoại ô, trong ấn tượng lần đầu tiên của một đứa bé, tôi đã xem hình ảnh những hàng cây xanh trong sân trường kế bên là chỗ dựa tinh thần và ngôi nhà tâm linh đầu tiên của mình. Ngày xưa, mỗi khi nghe thấy tiếng trống trường mỗi dịp 5 tháng 9 và ngắm nhìn những hàng hoa phượng trổ bông vào mùa hè, tôi đã vô cùng sung sướng. Kể từ khi đi sang nước ngoài, tôi đã gần như đánh mất hoàn toàn những cảm xúc và kỉ niệm đơn sơ đó. Vậy nên từ lần đầu tiên ‘giác ngộ’ đó tôi đã coi thiền hành là phao cứu sinh lớn nhất của mình, và tôi tiếp tục đi tìm lại cái cảm giác của niềm vui và bình yên đó trong những tháng tiếp theo, nhưng nó không đến với tôi nữa. Ngược lại, tôi bắt đầu đắm chìm trong những khổ đau của mình, vì nó bắt đầu đến không ngừng kể từ khi tôi đi Làng Mai về. Từ nhỏ tôi đã đúc kết được thấm thía câu này nói rằng, không có gì là tồn tại vĩnh cữu và trước khi cơn sóng lớn thì mặt nước lúc nào cũng yên bình cả. Ngay khi tôi tưởng rằng mình đã tìm thấy lại hạnh phúc đích thực của mình, tôi mới nhận ra tất cả chỉ là bắt đầu mà thôi. Thế là theo một cách khá là hèn nhát, tôi lại tiếp tục chạy trốn, lần này là quay về New Zealand - nơi đã đánh dấu quá trình trưởng thành của tôi, và cũng là nơi chấp chứa những sang chấn tâm lý đầu đời vẫn luôn đi theo tôi. May mắn là trong chuyến đi đến Làng Mai ở New Zealand, tôi đã có 10 ngày thật kì diệu khi tôi bắt đầu nhận diện rõ ràng hơn những vết thương mà tôi đã đi qua và cuối cùng tôi đã có thể an ủi chúng và nói với tôi của ngày đó rằng: không sao đâu, mọi chuyện đã qua rồi, và tôi xứng đáng có được hạnh phúc. Tôi đã có thể nói với những người từng tổn thương tôi rằng: không sao, tôi tha thứ cho bạn, vì tôi biết rằng khi tôi tha thứ cho bạn là tôi cũng đang tha thứ cho bản thân tôi và những lỗi lầm ngày xưa của mình. Calling the Old Wounds (Gọi Tên Những Vết Thương Cũ) Lần đầu tiên tôi bắt đầu viết được thơ, chính là vào ngày thứ 3 trong chuyến đi đó. Đột nhiên trong những giây phút mà cảm xúc của tôi trào trực , thì chỉ có viết thơ mới giải tỏa nổi những cảm xúc mạnh mẽ ấy mà thôi. Trên đường thiền hành từ chân núi lên tới đỉnh đồi của thánh điện (sanctuary), tôi đã cảm nhận rõ ràng sự che chắn của các thân cây vững vàng cho những tâm hồn nhỏ bé như tôi. Và khi tôi đi ngang qua những hàng cỏ lau và cánh đồng hoa trên con đường mòn, tôi đã cảm giác rằng cuối cùng thì mình cũng đã được tự do. Tự do khỏi những rễ bám của quá khứ, của những nỗi ám ảnh trong lòng và được tự do khỏi những gồng xích mà tôi đã mang theo trong những 6, 7 năm cuộc đời. Tôi đã nói với mình rằng: thật may quá Trinh ơi, cuối cùng mày cũng bỏ xuống được rồi. Come what may (Hãy đến đi) Khi nghe tiếng hát đồng ca của các cô chú trung niên trên thánh điện và nhìn lên bầu trời xanh, tôi đã nghĩ rằng mình đã về nhà thật rồi, và mình còn tìm thấy Phật trong tim tôi nữa. Vị Bồ Tát trong tim tôi đã cho tôi sức mạnh và dũng khí để nói với những khổ đau ấy rằng: ta không sợ hãi các ngươi nữa, hãy đến đây đi, vì ta đủ vững vàng và lòng tự bi để đón nhận ngươi, và ta biết rằng ngươi sẽ không đánh ngã được ta nữa. Sau đó khi về lại Việt Nam, tôi bắt đầu đi tìm cách kết nối lại với cô bé Trinh trong tim mình. Tôi quay lại trở thành đứa bé năm nào: tôi quay về những mái trường xưa, kết nối lại với những người bạn thân thiết đã từng đi qua cuộc đời tôi, tôi tìm cách truyền thông với hai anh trai tôi, và nhờ đó họ giúp tôi truyền thông với ba mẹ tôi, và tôi đi làm những sở thích khi còn bé của mình, chẳng hạn như là học nhạc và học về phim, đặc biệt là phim Hồng Kong. Nghe thì chắc là khù khờ lắm nhưng đột nhiên trong một ngày mưa đầu mùa ở Sài Gòn, sau khi đã hòa giải phần nào với đứa trẻ trong tôi, lần đầu tiên trong đời tôi biết được cảm giác ‘đầy đủ’ (‘whole’). Lần đầu tiên được nghe bài hát này ở xóm Thượng tôi đã khóc rất nhiều. Bài hát chỉ vỏn vẹn 2 chữ Namo Avalokiteshvara - có nghĩa là Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát trong tiếng Phạn nhưng không hiểu sao nước mắt tôi lại không ngừng rơi. Có hơi xấu hổ vì tưởng chỉ có mình như thế, nhưng khi nhìn xung quanh thì mới thấy mọi người ai cũng khóc như tôi. Có rất nhiều suy nghĩ đi qua đầu tôi, tôi nhớ tới ông bà mình, những người đang hiện tiền và những người đã khuất, sống lại qua những câu chuyện tôi được nghe kể từ bé. Tôi nhớ tới gia đình tôi, và những khó khăn chúng tôi đã đi qua. Tôi nghĩ tới bản thân tôi, và tôi cảm thấy như trái tim mình được nhẹ dần theo tiếng hát của tăng thân Làng Mai. Về sau, khi đã đi qua nhiều nghiên cứu, hiểu nhiều hơn và thương nhiều hơn, mỗi khi nghe đến bài hát này thì trong đầu tôi lại nảy ra những câu thơ, như những tiếng nói tôi nói với chính tôi, và có lẽ cho ông bà cũng như gia đình trong tôi.
Việt ơi, hãy về nhà thôi.
0 Comments
Leave a Reply. |
intro8/1/19 ~ 8/10/19 archives
November 2019
Categories |