Hồi 2: “Chiến tranh là gì hả Ngoại?” (Granny, what was war like?) Năm tôi lên 6, lần đầu tiên tôi biết đến cái chết là gì. Dù với một đứa trẻ thì nó cũng chẳng thể hiểu rõ ý nghĩa của việc mất đi một người thân là như thế nào. Khi lon ton đi theo anh tôi và nghe những câu chuyện của những người ngày xưa đi theo cách mạng, rồi từ cả những người từ phe đối lập từng được bà cố tôi cưu mang thời chiến tranh, phiên bản 6 tuổi của tôi đã nghĩ rằng thật may khi chiến tranh kết thúc. Dù rằng khi ấy tôi chỉ mới 6 tuổi nhưng những ký ức về ngày mất của bà cố tôi vẫn luôn đi theo tôi đến tận bây giờ, và có lẽ cho đến giờ tôi vẫn chưa được chứng kiến đám tang của người dân thường nào như bà tôi. Khi nhìn vào dòng người đưa tiễn bà trên đường dài gần cả cây số , tôi đã không thể hiểu vì sao lại có nhiều người đến đưa bà tôi như vậy. Hôm đó tôi không khóc, vì một đứa trẻ mới lên 6 thì đã hiểu được gì đâu, nhưng rất nhiều người đã khóc và họ gọi bà cố tôi bằng ‘má’. Khi nhớ lại cảnh tượng đó vào lúc này, tôi mới nhận ra cái ranh giới giữa cái gọi là địch và ta sao nó mong manh quá, rồi cái ranh giới giữa đúng và sai có thể được phân định như thế nào đây, khi chúng ta và những con người tội nghiệp đó đều chỉ là nạn nhân mà thôi. Khi lớn lên tôi mới hiểu ra rằng, đằng sau cuộc đời của một bà mẹ Việt Nam Anh Hùng là sự túng quẫn trong cái nghèo mạt của chiến tranh, ‘đến rau cũng chẳng có mà ăn, vì giặc nó đốt hết rồi’, đến từng hạt cơm phải đi xin hàng xóm láng giềng nhưng vẫn đầy đủ tình thương bác ái để cưu mang bộ đội và ngay cả những người lính Cộng Hòa, vì đối với họ các anh là hiện thân của người cha, người chồng và những người con không còn bao giờ về được nhà của họ. Mẹ tôi từng nói với mấy anh em tôi, các con sẽ chẳng bao giờ hiểu được cảm giác nỗi sợ hãi mỗi khi nghe tiếng máy bay đến là phải chạy ngay xuống hầm để né bom đạn, thấy hàng xóm mình cách đây mấy phút thôi vừa nói chuyện xong giờ đã không còn xương thịt, và nỗi đau thương tột cùng khi giấy báo tử gửi về nhà, không phải chỉ một người mà cả 4 người cùng đến liên tiếp. Và có lẽ mẹ tôi nói đúng, chúng ta sẽ chẳng bao giờ hiểu được cả vì nó quá ghê gớm, so với sức chịu đựng và sự tưởng tượng của một người được may mắn sống trong thời bình. Từ bé đến lớn mấy anh em tôi rất thích hỏi chuyện bà Ngoại với bà Nội, về những câu chuyện ngày xưa và cuộc đời họ đã đi qua như thế nào. Có lần tôi hỏi Ngoại, “chiến tranh là như thế nào hả Ngoại?”, Ngoại mới kể tôi nghe về bệnh mất ngủ của bà, rằng mỗi khi nhắm mắt đi ngủ là Ngoại lại thấy hình ảnh chết chóc ngày xưa sống lại trong đầu và không đêm nào là nó không đeo bám Ngoại. Ngoại nói, “chiến tranh là vậy đó con - cái nghèo đói và cái chết, nó cứ dai dẳng như vậy.” Ngoại kể có nhà bà hàng xóm gần quê tôi, trong gia đình có người anh theo phe Cộng Hòa còn người em thì theo Cộng Sản, người cha đã chết vì bị lạc bom ở giữa mảnh ruộng trước nhà. Ngày đó phe Cộng Hòa về quê tôi để truy tìm càn quét Cộng Sản, người anh chỉ ra người em và người em bị bắn chết tại chỗ trong sự ngỡ ngàng của cả gia đình. Rồi chỉ vài ngày sau, mấy người trong tiểu đội của người em vì muốn trả thù cho các anh em đồng chí của mình đã phục kích bắn chết người anh và những kẻ chỉ điểm khác. Người mẹ của hai anh em vì đau buồn quá mà hóa điên dại, không lâu sau thì bị lạc đạn chết khi quân Mỹ tràn vô. Nếu còn sống, bà ấy chắc giờ cũng trạc tuổi Ngoại tôi. Có lẽ hình ảnh ám ảnh nhất với Ngoại tôi và các dì cậu của tôi là chứng kiến trước mắt những người lính chết trẻ vô danh, xương thịt không còn. Có những người quê ở tận miền Bắc nhưng chết trên đất Long An quê tôi. Cậu tôi kể lại lời cuối cùng họ nói với Ngoại tôi - khi cậu còn là đứa trẻ đi chạy giặc theo Ngoại, là ‘mẹ ơi, con đói quá, con ngửi thấy cơm mẹ nấu rồi...’ Mỗi lần nhắc đến câu chuyện đó, cậu và dì tôi đều xúc động và lặng người đi. Đó là những hình ảnh luôn đi theo gia đình tôi, và trên tất cả những kí ức khủng khiếp đó, là nỗi sợ hãi chiến tranh. Và tôi biết nó cũng hiện hữu trong tôi, kể cả những ảm ánh đó. Sau năm 1975 chính quyền mới bắt đầu những chính sách cải cách của mình, và nhà tôi đã từ nghèo còn nghèo hơn nữa, đến mức không thể sống ở Long An nữa phải chuyển hoàn toàn lên Sài Gòn kiếm sống. Ông Bảy em trai bà Nội tôi từng là một tướng tá chức vụ cao trong chính phủ Cộng Hòa không thoát khỏi bị đưa vào trại cải tạo và đưa về những vùng đổi mới. Trong khoảng thời gian đó thì một trong những cộng đồng chịu ảnh hưởng nhiều nhất ở Sài Gòn có lẽ là người Hoa ở Chợ Lớn. Cô giáo tiếng Hoa của tôi – người đã dạy tôi từ khi còn nhỏ là con một trong gia đình phong kiến của Trung Quốc ở Phúc Kiến. Khi cô còn nhỏ, vì ông nội cô từng làm tham quan cuối thời nhà Thanh nên khi cách mạng bùng nổ gia đình bị tước hết tiền của và ba mẹ cô đi thuyền sang Việt Nam. Ba cô là giới tri thức ở Trung Quốc, vì sinh ra là con nhà quan và sống trong nhung lụa từ nhỏ, nên khi phải vượt biên sang Việt Nam và bắt đầu cuộc đời mới nghèo khổ ông đã không làm được. Ông rơi sâu vào thuốc phiện và một mình mẹ cô nuôi cô khôn lớn. Có lẽ vì vậy nên cô tôi rất khó tính và khó đặt tình cảm của mình cho người khác. Năm đó cô 25 tuổi, cái tuổi đẹp nhất của đời con gái, cô đã gặp người mình thương và hai người đã hứa hẹn rất nhiều. Nhưng rồi gia đình chàng trai muốn anh cùng họ đi vượt biên, nên anh đã hứa với cô là khi sang đến Hồng Kong anh sẽ gửi thư về. Lúc đó hai người đã coi nhau như là vợ chồng chưa cưới. Nhưng rồi lá thư đó không bao giờ đến nữa, vì không lâu sau bạn của anh đã nhắn với cô rằng thuyền tàu của anh không may mắn gặp phải cướp biển và nghe đâu là đã bị chìm giữa biển. Cô giáo tôi đến bây giờ dù đã gần 70 mấy vẫn không kết hôn, tôi nghĩ là cô đã cạn kiệt hi vọng cho bản thân từ khi nghe tin anh chết. Nhưng dù vậy tôi biết sâu thẳm trong cô vẫn luôn tin rằng chàng trai ấy đã may mắn sống sót và đang sống tốt ở đâu đó, có thể chỉ là chúng ta không biết đến mà thôi. Đó là người đàn ông đầu tiên, và cũng là cuối cùng của cô tôi. Những gì chiến tranh Việt Nam để lại trong tôi là cái nghèo, cái chết, sự chia ly và nỗi sợ hãi vô cùng rằng những điều đó sẽ đến. Tôi hiểu rằng tôi không khác gì những nhân vật được kể ở trên và tất cả họ đều là một phần trong tôi. Và cả những nỗi sợ hãi đó vẫn luôn thường trực trong tôi sau này, vì chúng tôi là những hậu nhân trực tiếp từ những sang chấn đó. Khi ngồi viết những dòng này và nhớ lại những câu chuyện đã đi qua, tôi thường tự hỏi nếu năm đó chúng ta là những Nguyễn Sinh Cung, Lê Duẩn, Ngô Đình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu, chúng ta sẽ lựa chọn như thế nào? Phải chăng chúng ta cũng sẽ lại bị cuốn theo dòng chảy lịch sử và hệ thống vận hành đó, rồi chúng ta sẽ lại đi về đâu? Một đất nước nhỏ bé như Việt Nam chúng ta rồi sẽ đi về đâu khi đứng cô lập một mình mà không có các ‘anh lớn’, trong khi các ‘anh lớn’ thì luôn chực chờ chỉ để tranh giành mổ xẻ các em nhỏ trong một nhà? Tất cả họ, dù là người hùng hay tội đồ theo bất cứ khía cạnh nào, đều đã từng là những người thanh niên yêu nước 20 tuổi như tôi. Chúng ta và họ thật ra có khác nhau gì đâu, chỉ khác ở chỗ họ đã lựa chọn trở thành những kẻ thao túng vì mục đích của họ, nhưng cái sự tự do mà họ hướng đến lại đem đến khổ đau cho ta dù họ tin rằng điều đó là đúng, cũng như việc ta tin rằng chỉ có sự tự do mà ta định nghĩa mới là đúng. Và đó, bạn bắt đầu thấy sự luẩn quẩn trong vòng luân hồi của dòng nghiệp cuộc đời này chưa? Con người ta khổ đau nhất đâu phải vì họ thấy khổ, mà là vì họ không biết rằng mình đang bị sống trong những nhà tù được xây bởi những bàn tay xung quanh họ. Nói đến đây thì bản thân tôi cũng bắt đầu thấy mình lan man khó hiểu rồi. Đây có lẽ là những câu hỏi mà hi vọng rằng sau chuyến đi hành hương về nguồn cội này, tôi sẽ tìm thấy những câu trả lời nào đó cho bản thân mình. Hoặc cũng có thể, tôi sẽ phải dành cả đời mình để thật sự hiểu và tìm câu trả lời. Trong một lần đang đi thiền hành một mình lên đỉnh núi ở Dharma Gaia, khi đầu tôi lại nhảy ra những câu hỏi và ý nghĩ về quá khứ, đột nhiên tôi lại có suy nghĩ như thế này: nếu đã là dòng nghiệp thì tất yếu không tránh khỏi. Những gì đang xảy ra với chúng ta chính là sự hệ lụy tất yếu đó, có thể gọi là nhân quả chăng? Từ một gia đình nghèo khó, nhà chỉ có 2 vách xây bằng lá ở dưới miền quê sông nước Cửu Long, di cư lên thành phố để kiếm sống đến khi sinh ra ở nơi thành phố, trong một gia đình đầy rẫy bà con họ hàng, với những lễ nghi, nề nếp truyền thống lâu đời và bắt đầu trở nên khá giả hơn; những gì gia đình tôi đã mất đi là thân xác biết bao người thân đã ngã xuống trong chiến tranh, và tôi là một sự kết hợp cũng như hệ lụy của tất cả dòng chảy lịch sử đó. Biết bao nhiêu năm đấu tranh, nhấc lên, nhấc xuống và đổ máu chỉ vì bảo vệ cái gọi là 'một lý tưởng vĩ đại', âu rằng tất cả chúng ta cũng chỉ là những con sóng vô hình, hữu hình trong cái bản thể gọi là nước đó mà thôi. Có lẽ cái chúng ta nên hướng đến là làm thế nào để chuẩn bị cho Việt Nam có thể đón nhận dòng nghiệp của mình một cách tốt nhất. Và rồi trong đầu tôi hiện lên những hình ảnh của tương lai, mà ở đó tôi ước mơ rằng, một ngày kia những thế hệ đi trước như chúng tôi có thể nhìn thấy những thế hệ đàn em, con cháu của mình trở thành những con người quyết định thay đổi dòng nghiệp của đất nước. Chúng ta biết ơn, chúng ta nhận lỗi, chúng ta cố gắng bảo vệ những gì đang mất đi, chúng ta biết và hiểu rõ những gì đã và đang xảy ra, và quan trọng nhất, là chúng ta mang theo tình thương vô bờ bến cho chính bản thân và anh em đồng bào ta. Tôi ước mơ thấy một thế hệ trẻ tràn đầy tình thương, và họ có thể hiểu được rằng vì cuộc đời là vạn biến nên tình thương của chúng ta cũng không thể nào có giới hạn. Tất cả gọi là ‘lý tưởng’, ‘đúng – sai’, ‘tốt – xấu’, ‘ý niệm’ đều chỉ là thoáng qua mà thôi, cũng như sự tồn tại của chính chúng ta vậy. Chỉ khi chúng ta nhận ra rằng, sự tồn tại của cái gọi là bản chất, thật ra chỉ là một sự lựa chọn mà thôi – chỉ khi đó, chúng ta mới có được tự do thật sự và biết được con đường đi cho chính bản thân chúng ta và những gì chúng ta yêu quý. Và rồi tôi lại tự hỏi, liệu những người đi trước chúng tôi ngày xưa cũng đã từng mang theo những ước mơ này chăng? Hồi 3: Nói chuyện với Tổ Tiên và con đường tâm linh 'về nhà’...Nhà là gì, nhà ở đâu? Ở Làng Mai, ai cũng bảo là nhà ở nơi đây, ngay tại giây phút này nhưng lúc đó tôi có hiểu được nhiều đâu. Về sau tôi mới ngộ ra rằng, thật ra nhà không phải ở ngay giây phút hiện tại, chỉ khi ta quay về với bản thể thực tại thì ta mới có đủ điều kiện để nhận ra ngôi nhà trong tim mình.
0 Comments
Leave a Reply. |
intro8/1/19 ~ 8/10/19 archives
November 2019
Categories |